Bức tranh dân gian được vẽ bởi người hoạ sĩ vô danh với mong muốn cầu chúc hạnh phúc cho mọi người phản ánh tính cách của những con người mang bản chất lạc quan và khoẻ khoắn ngay cả trong cuộc sống mưu sinh khó khăn. Mặc dù ý nghĩa huyền diệu ban đầu có thể suy giảm, nhưng ngày nay, tranh dân gian vẫn mang lại niềm hạnh phúc cho nhiều người.
Từ xa xưa, bệnh truyền nhiễm đã là một thảm hoạ lớn. Vào thời chưa có kiến thức khoa học lý giải virus chính là nguyên nhân của bệnh truyền nhiễm, con người tin rằng ma quỷ mang đến bệnh tật cho họ. Vì vậy có phong tục vào ngày mùng Một tháng Giêng, trên cánh cửa mỗi nhà sẽ dán bức tranh vẽ Cheoyong – con trai Long Vương trong những bức tranh dân gian, với ý nghĩa xua đuổi ma quỷ.
Phong tục này có nguồn gốc từ thời vua Heongang (trị vì từ năm 875 đến 886), triều đại thái bình và thịnh vượng nhất trong suốt thời Silla thống nhất (676–935). Vào một lần vua Heongang đi dạo tới ngôi làng Gaeunpo ven biển Donghae (ngày nay thuộc Ulsan), \dù đang buổi ban ngày nhưng đột nhiên trên trời mây đen kéo tới và sương mù giăng khắp lối, đất trời bỗng chốc trở nên tối tăm. Vị vua thấy lạ lùng trước khung cảnh ấy bèn hỏi quan thiên văn, khi ấy ông đã trả lời “Đây là biến quái của Long Vương, chúng ta phải xoa dịu Long Vương”. Sau đó, khi vua hứa sẽ xây cung điện cho Long Vương thì ngay lập tức cảnh tượng đất trời tối tăm cũng biến mất.
Để báo đáp, Long Vương cử con trai của mình là Cheoyong xuống hạ giới, vua sắp xếp hôn nhân cho Cheoyong và ban chức vị cho chàng. Tuy nhiên, vẻ đẹp của phu nhân Cheoyong đã gây ra vấn đề. Người vợ ấy đẹp đến nỗi ma quỷ cũng phải ngưỡng mộ. Vào một đêm sáng trăng, Cheoyong trở về nhà muộn và tận mắt chứng kiến một con quỷ đang cùng nằm trên giường với người vợ của mình. Ông cất tiếng, “Vốn dĩ nó thuộc về ta, nhưng có kẻ đã cướp đoạt, ta phải làm gì với thứ đó”, nói rồi ông tha thứ cho tên quỷ. Cảm động trước tấm lòng khoan dung ấy, từ đó về sau, ma quỷ chỉ cần thấy hình ảnh của Cheoyong trên cửa sẽ không dám lảng vảng tới nữa.
* “Bình phong bốn tấm với hoa mẫu đơn”, thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20.Mực và màu trên lụa. 272 x 122,5 cm (mỗi tấm). Bảo tàng Cố cung Quốc gia Hàn Quốc.Hoa mẫu đơn trong suốt một thời gian dài được coi như biểu tượng của sự giàu sang và phú quý. Như một hoạ tiết nghệ thuật, hoa mẫu đơn cũng tô điểm cho đồ dùng và quần áo. Những bình phong hoa mẫu đơn có 4, 6 hay 8 tấm, dùng để trang trí nhà cửa và thường dùng vào dịp hôn lễ.
Nguồn gốc tranh dân gian
Câu chuyện thần thoại này đem đến cho chúng ta hai điều thú vị. Thứ nhất, Môn thần Cheoyong là bức tranh dân gian đầu tiên được ghi chép lại trong lịch sử và được truyền bá rộng rãi trong dân chúng. Mặc dù sự khởi đầu của minhwa, tranh dân gian, có thể bắt nguồn từ những bức tranh trên hang đá thời tiền sử, nhưng bức hoạ Môn thần Cheoyong là bức tranh đầu tiên được ghi chép lại. Thứ hai, cách mà Cheoyong xua đuổi tà ma. Không phải gây ra nỗi sợ hãi bằng vẻ ngoài đáng sợ hay kỳ dị, Cheoyong đã xua đuổi ma quỷ bằng cách làm nó cảm động trước sự rộng lượng của mình. Đó chắc chắn là lý tưởng nghịch lý của người Silla.
Vào thời đại Joseon (1392–1910), phong tục Môn thần Long Hổ cũng khá phổ biến cùng với Môn thần Cheoyong. Vào ngày đầu tiên của năm mới, một bên cửa sẽ gắn hình Rồng và bên còn lại sẽ gắn hình Hổ, cùng với Môn thần Cheoyong – có chức năng xua đuổi tà ma, phong tục Môn thần Long Hổ sẽ có tác dụng cầu mong sự cát tường. Hổ sẽ đánh đuổi những linh hồn ma quỷ gây hại cho con người, và Rồng sẽ mang tới may mắn, hạnh phúc. Nghĩa là, bức tranh Hổ có chức năng trừ tà, kết hợp với bức tranh Rồng có nhiệm vụ cầu may. Dù chức năng biểu hiện khác nhau, nhưng hai linh vật này gần như cùng chung một mục đích. Cả hai đều là những phương tiện thần kỳ để cầu mong và duy trì bình an, hạnh phúc cho gia đình.
Mặt nạ của thần Cheoyong, với chiếc mũ được trang trí bằng hoa mẫu đơn và trái đào. Hình minh họa về mặt nạ và quần áo mặc trong Vũ điệu Cheoyong được đưa vào tập 9 của “Quy phạm Nhạc học” (Akhak gwebeom), được xuất bản vào năm 1493 bởi Học viện Âm nhạc Hoàng gia Joseon.
“Chaekgeori”. Thế kỷ 19. Mực và màu trên giấy. 45,3 x 32,3 cm. Bộ sưu tập tư nhân.Bức tranh Chaekgeori có đặc trưng tràn ngập các biểu tượng tốt lành. Sách tượng trưng cho thành công; quả dưa hấu, nhiều con trai; quả đào, trường thọ; và hoa sen nở, hạnh phúc.
Hình ảnh tượng trưng
Vào thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của thương mại, nhu cầu về tranh đã mở rộng ra nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Khi đó, tranh dân gian cũng phát triển đa dạng hơn. Các loại motif tranh dân gian tăng lên, cùng với đó cách biểu hiện cũng đa chiều hơn. Nhưng trên tất cả, điều đặc biệt đáng nói, là con người thể hiện mong muốn hạnh phúc qua những bức tranh. Vì vậy, giáo sư Fumikazu Kishi của trường Đại học Doshisha Nhật Bản chú ý đến đặc trưng này và đã đề xuất đặt tên cho những bức tranh dân gian là “tranh hạnh phúc” (haengbokhwa).
Tuy nhiên, không chỉ những bức tranh dân gian thời Joseon thể hiện mong muốn hạnh phúc. Tranh dân gian của các quốc gia Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam đều thể hiện khát vọng mưu cầu hạnh phúc. Những bức tranh chứa đựng lời cầu bình an, cầu thành công và mong muốn sống lâu. Ví dụ nếuhoa mẫu đơn, hoa sen, rồng, phượng hoàng và con dơi tượng trưng cho hạnh phúc thì dưa hấu, lựu, nho, hạt sen lại mang ý nghĩa đông con trai nối dõi. Nếu như hoa mào gà, đuôi công, sách và cá chép thể hiện ước muốn thành công, thì tre, hạc, mặt trăng, mặt trời, rùa, hươu và cỏ trường sinh là tượng trưng cho sự trường thọ. Đặc điểm này khác biệt hoàn toàn với hội hoạ phương Tây – vốn bao hàm tất cả các cung bậc cảm xúc từ tình yêu, nỗi sợ hãi, cái chết và cả hạnh phúc.
Hoa mẫu đơn đã trở thành biểu tượng của sự giàu sang bắt nguồn từ bài thơ “Ái Liên thuyết ”của Chu Đôn Di, triết gia Tân Khổng giáo đời Tống. Trong bài thơ này, hoa mẫu đơn là hình ảnh ước lệ của người giàu sang phú quý, hoa cúc là ẩn sĩ và hoa sen được so sánh với hình ảnh người quân tử. Tuy nhiên, vào thời đại Joseon rất khó để có thể chấp nhận hình ảnh tượng trưng này của hoa mẫu đơn. Bởi Khổng Tử, người được những học giả thời Joseon tôn sùng, đã nói rằng “Ăn cơm gạo thô, uống nước lã, khi ngủ co cánh tay mà gối đầu, niềm vui cũng ở trong đó rồi. Còn như dùng phương pháp không chính đáng để đạt được giàu có và phú quý, ta coi như đám mây trôi vậy” (“Luận Ngữ”, Thiên Thuật Nhi). Vì vậy, những học giả này cảm thấy xấu hổ khi bàn về sự vinh hoa phú quý phàm tục.
Vào thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của thương mại, nhu cầu về tranh đã mở rộng ra nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Khi đó, minhwa cũng phát triển đa dạng hơn. Các loại motif tranh dân gian tăng lên, cùng với đó cách biểu hiện cũng đa chiều hơn.
“Rồng và Hổ” (một phần). Thế kỷ 19. Mực và màu trên giấy. 98,5 × 59 cm (mỗi tấm). Bộ sưu tập tư nhânRồng thường được tin rằng có thể đuổi ma quỷ. Trong Phật giáo, nó được coi là người bảo vệ đạo pháp, hay luật và trật tự vũ trụ. Vì vậy, rồng trở thành họa tiết trang trí phổ biến trong nghệ thuật đền chùa. Đây là một phần của tác phẩm gồm hai tấm, tấm còn lại có hình một con hổ. Những con thú trông thú vị hơn là hung dữ.
Đức hạnh của Nho giáo
Vào thế kỷ 19, mọi sự đã hoàn toàn thay đổi. Bức tranh hoa mẫu đơn bất ngờ trở nên được yêu thích. Trong nhà, bức bình phong hoa mẫu đơn được dựng lên để trang trí không gian gia đình hạnh phúc; trong bữa tiệc, những bức bình phong mẫu đơn bao quanh làm bừng sáng sự kiện. Điều này là do nhận thức của các học giả đã thay đổi theo hướng thực tế sau khi trải qua bốn cuộc chiến tranh từ chiến tranh Joseon–Nhật Bản (1592–1598) tới cuộc chiến tranh xâm lược của Mãn Châu (1627, 1636–1637). Những người tôn trọng tiết hạnh nghiêm khắc của Nho giáo và coi trọng lý lẽ triết học đã mở mắt trước những mong muốn thực tế. Xã hội Joseon tham gia muộn màng vào “Lễ hội hạnh phúc” nên càng khao khát hạnh phúc hơn những quốc gia Đông Á khác.
Tuy nhiên tranh dân gian cũng không thể hoàn toàn thoát khỏi hệ tư tưởng Nho giáo. Vì thế trong khuôn khổ đạo lý Nho giáo, họ đã thể hiện hình ảnh về ước muốn hạnh phúc bằng nhiều cách khác nhau. Ngay cả trong những mong ước may mắn mà tranh dân gian theo đuổi cũng mang tính hai mặt của Nho giáo. Một ví dụ điển hình là bức tranh thư phápVăn tự đồ (munjado). Ở những quốc gia Đông Á, những bức tranh thư pháp mang nghĩa may mắn như Hạnh Phúc, Thành Công, Trường Thọ… luôn được ưa thích. Thế nhưng, chỉ có ở thời đại Joseon “Hiếu Đễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm Sỉ” là những ý niệm Nho giáo liên tục được xem trọng.
Thời gian trôi đi, lý tưởng Nho giáo chứa đựng trong thư pháp dần dần suy giảm, thay vào đó, biểu tượng Hoa và Chim được thay thế. Bề ngoài nó dường như hướng đến một ý thức hệ phong tục, nhưng bên trong, thật kỳ lạ, nó lại chất chứa hình ảnh mong ước hạnh phúc đang nở rộ. Do đó, những bức tranh chữ Nho giáo đã mang đến một ý nghĩa độc đáo, đạo lý không phải là một cơ chế để kỳm hãm dục vọng, mà nó là cơ sở để đáp ứng những khát vọng hạnh phúc.
Cảm giác vui tươi
Những bức tranh dân gian Hàn Quốc cầu mong hạnh phúc được thể hiện bằng những gam màu tươi sáng và những cung bậc cảm xúc tươi vui đầy hài hước. Không chỉ ý nghĩa chứa đựng trong bức tranh, mà bản thân hình ảnh nhẹ nhàng, tươi sáng đã có thể khiến người xem cảm thấy hạnh phúc.
Nửa sau thế kỷ 19, xã hội Joseon bước vào thời kỳ rất khó khăn về chính trị và kinh tế. Những cường quốc như Nga, Mỹ, Anh, Pháp… dòm ngó bán đảo Hàn, và cuối cùng Joseon rơi vào tay Nhật Bản. Tuy nhiên trong tranh dân gian của thời kỳ này vẫn không tìm thấy sự u ám nào. Ngược lại là sự vui tươi và phấn khởi. Bạn có thể cảm nhận được tâm hồn của những người vượt qua nghịch cảnh với tinh thần lạc quan. Đó được gọi là “những bức tranh tươi vui trong lịch sử u tối”.
Điều đáng ngạc nhiên là gần đây, những bức tranh dân gian thời Joseon hoài cổ trở nên thịnh hành. Tranh dân gian bắt đầu xuất phát từ sở thích sinh hoạt của các bà nội trợ nhưng sau này lại tiếp tục nổi lên như một thể loại mỹ thuật hiện đại. Những tác giả tranh dân gian ngày càng tăng, tranh dân gian hiện đại phát triển theo hướng đa dạng và chuẩn bị đón nhận một thời kỳ vàng son mới. Có nhiều lý do cho sự bùng nổ này, tuy nhiên, lý do lớn nhất là do nhận thức tranh dân gian mang lại cho chúng ta hạnh phúc. Tất nhiên nó xuất phát từ niềm tin vào bùa chú, nhưng hình ảnh tươi sáng và vui vẻ, tự nó đã truyền năng lượng khoẻ khoắn cho mọi người. Luôn cung cấp cho chúng ta sức mạnh của sự tích cực – đây chính là đặc tính cao đẹp nhất của tranh dân gian.
Cuộc đời dành cho Minhwa của kiến trúc sư Zo Za-yong
Có một tên tuổi gắn liền với tranh dân gian Hàn Quốc. Đó chính là Zo Za-yong (1926–2000) hay còn được biết với tên gọi “Mr. Tiger”. Ông là người đầu tiên chính thức sưu tập, nghiên cứu và quảng bá minhwa, tranh dân gian của Hàn Quốc, ra thế giới. Qua dịp tình cờ thấy hình vẽ một con hổ trên giấy ở cửa hàng đồ cổ ở phố Insadong, không ai ngờ cuộc đời Zo Za-yong, người học ngành kiến trúc và kỹ thuật xây dựng dân dụng trở về từ một trường đại học danh tiếng của Mỹ, đã rẽ sang một hướng hoàn toàn khác.
Chung Byung-moGiáo sư Khoa Di sản Văn hoá, Đại học GyeongjuDịch. Mai Kim Chi
Khi nhìn vào học vấn hay lý lịch của Zo Za-yong, người ta sẽ nhíu mày tự hỏi làm thế nào ông lại quan tâm đến tranh dân gian. Năm 1947, Zo Za-yong đến Mỹ theo học ngành Kỹ thuật xây dựng dân dụng tại Trường Đại học Vanderbilt, sau đó lấy bằng Thạc sĩ trở thành Kỹ sư chuyên ngành Kỹ thuật kiến trúc của Trường Đại học Harvard.
Năm 1954, trở về Hàn Quốc và thực hiện nhiều dự án phục hồi đất nước từ đống tro tàn của chiến tranh như tham gia công trình xây dựng nhà máy xi-măng Mungyeong do Cơ quan Tái thiết Hàn Quốc của Liên Hiệp Quốc (UNKRA) tiến hành, ông đã gặt hái nhiều điều từ thành công cho đến những va vấp. Trong quá trình đó, khi nhìn thấy cổng Iljumun của đền Beomeosa, ông vô cùng ấn tượng và ngạc nhiên trước cấu trúc bệ đỡ vững chắc cho mái nhà đồ sộ bằng bốn cột đá dựng thẳng hàng. Điều này đã truyền cảm hứng cho các chuyến ngao du khắp đất nước khi rảnh rỗi của ông để tìm hiểu các kiến trúc truyền thống của Hàn Quốc, và ông cũng miệt mài sưu tầm gạch ngói – vật liệu tiêu biểu trong kiến trúc truyền thống Hàn Quốc.
“Chim Ác là và Hổ”, cuối thế kỷ 19. Mực và màu trên giấy khổ 91,5 x 54,5 cm. Leeum, Bảo tàng Nghệ thuật Samsung. Đây là bức tranh khiến Zo Za-yong mê mẩn,và thay đổi cuộc đời ông. Chú hổ này đã truyền cảm hứng tạo ra Hodori, linh vật của Thế vận hội Olympic Seoul 1988.
“Tranh gấp tám tấm về Núi Geumgang”(một phần). Không rõ thời gian. Mực và màu trên giấy. Khổ 59,3 × 33,4 cm (mỗi tấm). Bảo tàng Dân gian Quốc gia Hàn Quốc.Nghệ thuật dân gian, qua tranh gấp về Núi Geumgang (Núi Kim Cương), phản ánh phong cách độc đáo của bức tranh phong cảnh “tả thực” (chân cảnh sơn thủy họa - jingyeong sansuhwa) do Jeong Seon (1676-1759), một nghệ sĩ cung đình của triều đại Joseon khởi xướng. Tấm này mô tả Guryong Pokpo (Thác Chín Rồng).
Chim Ác là và Hổ
Vào năm 1967, trong dịp tình cờ mua bánh gạo tại một cửa hàng đồ cổ ở khu phố Insadong, chính tờ giấy gói bánh đã làm thay đổi hẳn số phận cuộc đời ông. Hoàn toàn bị lôi cuốn bởi bức tranh dân gian “Chim Ác là và Hổ” (Kkachi & Horangi) in trên giấy gói, ông bắt đầu tiến hành nghiên cứu mảng nghệ thuật này. Bức tranh làm ông liên tưởng đến tranh của danh hoạ Picasso, bởi vừa có nét hiện đại, thêm vào đó, biểu cảm vừa thân thiện vừa ngốc nghếch của mãnh hổ đã làm ông say đắm. Ngày nay, bức tranh trở thành tác phẩm tiêu biểu cho dòng tranh dân gian Hàn Quốc và là nguồn cảm hứng tạo ra Hodori, linh vật của Thế vận hội Seoul 1988. Từ bức tranh này, ông để mắt đến hổ trong tranh Sơn Thần Đồ (Sansindo) và lần nữa nghiệm ra bức tranh có liên quan đến tín ngưỡng dân gian.
Ngoài “Chim Ác là và Hổ”, bức tranh dân gian tiếp theo gây ấn tượng mạnh mẽ cho Zo Za-yong là “Kim Cang Sơn Đồ” (Geumgangsando). Trong bức tranh này, ông đã khám phá ra vũ trụ quan và phong cách độc đáo của hội họa Hàn Quốc. Thay vì chú trọng miêu tả phong cảnh thực, bức tranh vẽ mười hai nghìn đỉnh núi sừng sững chọc trời, chứa đựng triết lý sáng tạo vũ trụ. Qua đó, giúp ông hiểu thấu tinh thần bên trong của tranh dân gian từ thực cảnh bên ngoài cũng như lĩnh hội về thuyết Vật linh.
Zo Za-yong, người từng theo học ngành xây dựng và kỹ thuật xây dựng dân dụng tại Mỹ, là một kiến trúc sư có nhiều công trình xuất sắc khi bén duyên với bức tranh vẽ hổ của một nghệ sĩ vô danh. Ông đã dành phần đời còn lại của mình để khám phá nghệ thuật dân gian Hàn Quốc.
Hội họa thực tế
Từ đó, ông dành hết tâm huyết cho việc quảng bá giá trị và vẻ đẹp của tranh dân gian khắp trong và ngoài nước. Ông lên kế hoạch và đã tổ chức 17 cuộc trưng bày tranh dân gian ở Hàn Quốc và 12 triển lãm ở nước ngoài. Một điều đáng chú ý, tận dụng kinh nghiệm học tập tại Hoa Kỳ, ông đã tổ chức triển lãm cũng như thuyết trình tại Hoa Kỳ và Nhật Bản. Các triển lãm như “Bảo vật từ núi Geumgang” (Treasures from Mt. Geumgang, năm 1976, Trung tâm Văn hóa Đông Tây, Đại học Hawaii), “Tinh thần của Hổ” (Spirit of Tiger, năm 1980, Bảo tàng Thành phố Đại học Washington, Seattle), “Thanh Long Bạch Hổ” (Blue Dragon and White Tiger, 1980, Bảo tàng Thành phố Auckland), “Con mắt của Hổ” (The Eye of Tiger, năm 1980, Phòng trưng bày Tranh nghệ thuật dân gian La Jolla, Los Angeles) và “Người canh giữ Hạnh phúc” (Guardians of Happiness, năm 1982, Phòng trưng bày Tranh nghệ thuật dân gian Los Angeles) đã cho thấy những nỗ lực quảng bá tranh dân gian Hàn Quốc ra nước ngoài của ông. Ngoài ra, ông còn dồn tâm sức trong việc xuất bản sách và tuyển tập tranh không chỉ bằng tiếng Hàn, mà còn bằng tiếng Anh và tiếng Nhật.
Tranh dân gian, theo Zo Za-yong, là những bức vẽ thể hiện bản chất tự nhiên của nhân gian. Nó được nhìn nhận theo nghĩa rộng, là những bức tranh liên quan đến cuộc sống và tâm lý vốn có của con người, chứ không bó buộc trong khuôn khổ khái niệm cấu trúc xã hội. Ngoài ra, phạm trù tranh dân gian theo ông định nghĩa bao gồm cả tranh tôn giáo như tranh cung đình, tranh Phật giáo, tranh tế lễ, được chế tác cho các mục đích sử dụng thực tiễn như trang trí, ghi chép, nghi lễ... Khái niệm tranh dân gian của Zo Za-yong đề cập đến hội họa thực tế – một phạm trù tương đối của hội họa thuần túy, khác với quan điểm “Nghệ thuật của con người – The Art of People” của nghệ nhân người Anh William Morris hay định nghĩa của Yanagi Muneyoshi, nhà phê bình nghệ thuật Nhật Bản và người sáng lập phong trào thủ công dân gian (mingei). Ông đã cố gắng tạo dựng và nâng cao vị thế của tranh dân gian qua việc mở rộng phạm trù ý nghĩa loại hình nghệ thuật này. Nhưng mặt khác, phạm trù tranh dân gian của Zo Za-yong cũng dấy lên nhiều tranh luận do bất đồng với ý kiến và quan điểm của giới sử gia Mỹ thuật Hàn Quốc vốn chia tranh dân gian và hội họa cung đình thành hai thể loại riêng biệt theo tầng lớp tiêu thụ.
Tư tưởng Tam Thần
Mối quan tâm và tình yêu đối với tranh dân gian của ông khởi phát từ bức “Chim Ác là và Hổ”, rồi mở rộng ra toàn bộ thể loại tranh dân gian, tiếp đến được thể hiện qua sự nghiền ngẫm sâu hơn về tinh thần tranh dân gian. Thông qua tranh dân gian, ông khám phá ra gốc rễ của mỹ thuật Hàn Quốc, và cuối cùng tìm ra nền tảng thế giới tâm linh Hàn Quốc trong các cơ tầng văn hóa chính là tư tưởng Tam thần của Shaman giáo. Ông đã tóm tắt hành trình tìm về cội nguồn văn hóa Hàn Quốc như sau.
“Trong quá trình mò mẫm tìm yêu tinh, rồi kiếm hổ, rồi lần đến sơn thần, sau đó chuyển sang kiếm tìm rùa, tuy còn mờ nhạt nhưng những nét văn hóa cha sinh mẹ đẻ bắt đầu lộ diện. Đó là việc tìm ra căn nguyên của nền văn hóa dân tộc từ minmunhwa (hay văn hóa dân gian).” Để khám phá điều này, ông đã không ngơi nghỉ tìm kiếm di tích, thu thập tư liệu, thành lập bảo tàng, tích cực đẩy mạnh quảng bá ra nước ngoài, cuối cùng là xây dựng Tam thần tự (đền Tam thần, 三神詞) và khơi dậy phong trào bảo tồn văn hóa làng xã đã mai một. (Theo Zo Za-yong, Đi tìm nguồn cội văn hóa dân tộc [Uri munhwa-ui motae-reul chajaseo], 2000, Ahn Graphics)
Tại hội chợ triển lãm Expo Daejeon năm 2000, ông tổ chức cuộc trưng bày mà mình mơ ước ấp ủ từ lâu về “Chúa tể yêu tinh, Rồng và Hổ dành cho thiếu nhi”. Tuy nhiên, đúng lúc đó căn bệnh tim kinh niên đột ngột tái phát, ông mất trong phòng triển lãm bao quanh bởi các bức tranh dân gian. Năm 2013, những người tưởng nhớ công lao sự nghiệp của ông đã thành lập Hội tưởng niệm Zo Za-yong, và từ năm sau đó, “Lễ hội văn hóa Daegal” hằng năm được tổ chức tại Trung tâm nghệ thuật Gana ở Insadong, Seoul. Chúng ta mãi tưởng nhớ đến Zo Za-yong bởi những dấu ấn kiệt xuất ông để lại trong việc khám phá nguồn gốc nền văn hóa, cùng những nỗ lực trong việc phổ biến và quảng bá tranh dân gian Hàn Quốc ra toàn thế giới của ông.